Thứ Bảy, 26 tháng 4, 2008

CÁC DẤU HIỆU HÌNH ẢNH: RÃNH LIÊN THÙY KHÔNG HOÀN TOÀN

HÌNH ẢNH

Dấu hiệu rãnh liên thùy không hoàn toàn thấy trên X quang ngực thẳng, gồm một vùng sáng thấu quang quanh rốn phổi được giới hạn phía ngoài bởi một bờ cong lõm và mờ ở phía ngoại vi của bờ này (hình 1). Dấu hiệu này thường thấy ở phổi bên phải.

Figure 1

Hình 1: X quang ngực thẳng chụp nằm ngữa, minh hoạ dấu hiệu rãnh liên thùy không hoàn toàn là vùng thấu quang ở phía trong và vùng mờ phía ngoài ở phần giữa phổi trái. Mũi tên = bờ hình thành do dịch màng phổi cạnh vùng phổi chứa khí.

GIẢI THÍCH

Hình ảnh này gây ra do dịch màng phổi ở phía ngoài của vùng phổi chứa khí ở bệnh nhân có rãnh liên thùy lớn không hoàn toàn (hình 2). Sự thấu quang quanh rốn phổi là mô phổi chứa khí. Đường cong lõm ở phía ngoài là do dịch bao quanh vùng phổi chứa khí.

Figure 2

Hình 2: Hình CT ngực cắt ngang ở bệnh nhân trên khẳng định rãnh liên thùy không hoàn toàn ở phía bên trái với dịch màng phổi thấy dọc theo bờ của thùy dưới phổi chứa khí.

BÀN LUẬN

Các rãnh liên thùy chia phổi thành các thùy bằng các nếp gấp của màng phổi tạng và là các điểm mốc giải phẫu quan trọng trên X quang ngực. Cần phải biết giải phẫu của các rãnh này để nhận ra các hình thái trên X quang quy ước và CT đồng thời để đánh giá sự hiện diện và độ lan của bệnh.

Rãnh liên thùy lớn tách biệt thùy trên và thùy giữa với thùy dưới ở bên phải và thùy trên với thùy dưới ở bên trái. Trên X quang ngực thẳng, Proto và Ball đã mô tả rãnh liên thùy lớn là một đường cong, thông thường bờ thấu quang ở phía trong và mờ ở phía ngoài, chạy dọc theo phân thùy trên của thùy dưới, được gọi là rãnh liên thùy lớn trên ngoài (superiolateral major fissure). Đường cong này được xác định ở 14% bệnh nhân. Mờ ở phía ngoài được cho là do mỡ ngoài màng phổi, tuy nhiên, dày màng phổi hoặc dịch có thể gây ra hình ảnh tương tự hoặc nhiều hơn. Fisher đã mô tả năm yếu tố sau quy cho khả năng nhìn thấy rãnh liên thùy lớn trên X quang ngực thẳng: thay đổi thể tích do xoay rãnh, rãnh không hoàn toàn hoặc biến thể kèm dịch, dày màng phổi, đông đặc phổi kế cận và thay đổi đường chạy của rãnh. Một nghiên cứu trước đây trên CT về rãnh liên thùy lớn thấy rằng nó hấu hết là dải thấu quang vô mạch, dạng đường ít gặp hơn và dạng dải mờ ít gặp nhất. Trên CT, hình ảnh của rãnh cũng phụ thuộc vào độ dày lát cắt.

Rãnh liên thùy lớn rất thay đổi khác nhau và thường không hoàn toàn. Mức độ không hoàn toàn có phạm vi từ gần như không có hoàn toàn đến gần như có hoàn toàn. Rãnh liên thùy lớn không hoàn toàn thường gặp nhiều hơn ở phổi phải, và mức độ không hoàn toàn thường khác nhau ở phía này. Glazer và cs. thấy rãnh liên thùy lớn không hoàn toàn ở bên phải là 64% và bên trái là 52% trong 50 bệnh nhân nghiên cứu. Tương tự, Aziz và cs. đã báo cáo rằng trong 622 bệnh nhân, 48% rãnh liên thùy lớn bên phải và 43% rãnh liên thùy lớn bên trái là không hoàn toàn trên ít nhất một hình CT. Các hai nghiên cứu này đều đánh giá trên các hình CT phổi lát cắt mỏng. Raasch và cs đã thực hiện một nghiên cứu chi tiết trên các mẫu mô phổi bị xẹp và được cố định (n=100; 50 bên phải và 50 bên trái) và đã báo cáo rãnh liên thùy phổi không hoàng toàn là 70%.

Có một số mối quan hệ lâm sàng của rãnh liên thùy lớn không hoàn toàn. Khi có rãnh phổi không hoàn toàn, nhu mô phổi kế cận bị dính và có thể cho phép bệnh lan và di chuyển khí qua phía bên kia. Các quá trình bệnh lý như viêm phổi, có thể lan giữa các thùy kế cận qua lỗ Kohn và ống Lambert. Di chuyển khí qua bên kia có thể quan trọng trên lâm sàng trong trường hợp tắc phế quản thùy. Di chuyển khí có thể cho phép trao đổi khí của thùy phổi còn tiếp tục khi có phế quản bị tắc nghẽn thông qua thùy phổi không bị tắc nhờ các rãnh liên thùy lớn không hoàn toàn. Otsuji và cs. thấy rằng hơn 95% rãnh liên thùy không hoàn toàn có liên quan với các cấu trúc mạch máu-phế quản chạy ngang qua các phân thùy phổi bị dịch. Cấu trúc thường gặp nhất là tĩnh mạch phổi, ít gặp hơn là động mạch phổi hoặc phế quản, có thể ảnh hưởng đến diễn tiến lâm sàng của nhiều bệnh lý phổi khác nhau. Kiến thức về sự hiện diện của rãnh liên thùy không hoàn toàn có thể quan trọng trong lập kế hoạch cắt thùy phổi vì có nguy cơ rò rỉ khí cao ở thùy phổi dính.

Tràn dịch màng phổi là một thực thể lâm sàng thường gặp trong nhiều nguyên nhân. Chẳng hạn, dấu hiệu rãnh liên thuỳ không hoàn toàn thường thấy ở những bệnh nhân bệnh nặng được chụp phim tư thế nằm ngửa. Vớ độ thường gặp của cả dịch màng phổi và rãnh liên thùy không hoàn toàn nói trên, dấu hiện rãnh liên thùy không hoaà toàn có thể là một công cụ hữu ích trong thực hành hằng ngày để tránh nhầm lẫn phổi chứa khí với tụ khí bệnh lý trong lồng ngực.

Nguồn: link ở đây

DOI: 10.1148/radiol.2472050864

(Radiology 2008;247:589-590.)
© RSNA, 2008


Signs in Imaging

The Incomplete Fissure Sign1

Meghan G. Lubner, MD

1 From the Mallinckrodt Institute of Radiology, Washington University School of Medicine, 510 S Kingshighway Blvd, Box 8131, St. Louis, MO 63110. Received May 23, 2005; revision requested July 9; revision received November 1; final version accepted January 16, 2006. Address correspondence to the author (e-mail: lubnerm@mir.wustl.edu ' + u + '@' + d + ' ).


3 nhận xét:

  1. sao mấy bài về sign này em không lấy được bài gốc, mấy anh chị chỉ cách em lấy bài gốc đi. thanks nhiều

    Trả lờiXóa
  2. @thanhluan: Muốn lâấ bài góc phải có user và pass. Khi nào anh gủi bài dạng PDF lên cho.

    Trả lờiXóa
  3. thanks anh Voi. Cám ơn các bài viết của anh, gởi tiếp đi cho em học với, mà cho kết quả cuối cùng của ca lâm sàng vừa rồi luôn đi.

    Trả lờiXóa