TỔNG QUAN VỀ SHOCK GIẢM THỂ TÍCH MÁU Ở NGƯỜI LỚN
TÓM TẮT
Shock giảm thể tích máu là bệnh cảnh thường gặp trên CT ở các nạn nhân bị chấn thương nặng. Ct bụng chậu sớm có thể thấy bất thường lan toả do giảm thể tích máu có thể cảnh báo cho bác sĩ X quang có shock giảm thể tích máu. Trong bào này, chúng tôi trình bày các dấu hiệu hình ảnh của shock giảm thể tích máu thấy trên CT bụng. Mô tả nhóm các dấu hiệu CT mạch máu và tạng. Dấu hiệu mạch máu gồm giảm đường kính tỉnh mạch chủ dưới, giảm đường kính động mạch chủ và tăng quang mạch máu bất thường. Bất thường tạng rỗng gồm tăng quang niêm mạc lan toả ở ruột non và đại tràng, dày thành ruột non lan toả và dãn ruột non. Bất thường tạng đặc gồm giảm tăng quang và tăng tăng quang cơ quan đích.
MỞ ĐẦU
Vào năm 1987, Taylor và cs. đã mô tả dầu hiệu CT giảm tưới máu ở ba trẻ em shock giảm thể tích máu. Các dầu hiệu CT gồm dãn ruột lan toả kèm dịch, tăng quang bất thường thành ruột, mạc treo, thận và tụy; giảm khẩu kính động mạch chủ bụng và tĩnh mạch chủ dưới; và dịch ổ bụng từ lượng trung bình đến nhiều. Các dấu hiệu khác gồm tăng quang mạnh tuyến thượng thận và tụy, tăng quang mạnh bất thường và giảm khẩu kính động - tĩnh mạch mạc treo tràng trên, tăng quang niệu quản kéo dài, giảm tăng quang tuỵ. Mới đây, Ryan và cs. đã xem xét 498 bệnh nhân, trong đó có 27 bệnh nhân có một nhóm các dấu hiệu của phức hợp shock giảm thể tích máu.
Từ tháng 1/1996 đến tháng 6/2000, tất cả các CT bụng cấp cứu sau chấn thương ở trung tâm chấn thương cấp 1 đã được xem xét lại. Hai tác giả có kiến thức đọc CT bụng và chậu chấn thương đã xem lại các hình ảnh CT. Họ đã đo đậm độ và khẩu kính các mạch máu bằng máy cũng như xem xét các tạng đặc và rỗng và tụ dịch. Các dấu hiệu khác cũng được thu thập gồm sữ hiện diện của dịch trong và ngoài phúc mạc và đo đậm độ.
Phức hợp shock giảm thể tích máu được chẩn đoán dựa vào sự hiện diện của hai hoặc hơn các tiêu chuẩn về mạch máu và tạng. Các hình ảnh sau đâu trình bày một bài tổng quan về các dấu hiệu CT trong nghiên cứu đoàn hệ này.
CÁC BIỂU HIỆN MẠCH MÁU CỦA SHOCK GIẢM THỂ TÍCH MÁU
Xẹp tĩnh mạch chủ dưới (IVC)
Các dấu hiệu CT của giảm thể tích máu gồm giảm khẩu kính IVC ở nhiều mức, xác định bằng đường kính trước sau ở ba mức. Đó là ICV trong gan, ngang mức động mạch thận và dưới mức động mạch thận 2cm (H1-5). tác động này là do giảm thể tích máu tuần hoàn và vì vậy gây giảm dòng tĩnh mạch trở về ở bệnh nhân giảm tưới máu toàn thể.
Hình 1: CT bụng cản quang ở bệnh nhân nam 34 tuổi bị tai nạn giao thông. Thấy một số đặc điểm của phức hợp shock giảm thể tích máu gồm xẹp tĩnh mạch chủ dưới (mũi tên trắng), đường kính mạch máu thận nhỏ và hẹp khẩu kinh động mạch chủ (0.7cm). Có tăng quang và dày thành ruột lan toả (mũi tên đen). Cũng thấy tăng quang vỏ thận mạnh.
Hình 2: CT bụng cản quang ở bệnh nhân nam 25 tuổi. Thấy tăng đậm độ nhu mô tụy (so với gan và lách). Tăng tăng quang nhu mô thận rõ cũng như khẩu kính IVC nhỏ.
Hình 3: CT bụng cản quang ở bệnh nhân nam 45 tuổi bị tai nạn giao thông. Thấy tăng quang thành mạnh ở niêm mạc ruột non phù hợp với shock ruột (mũi tên)
Hình 4: CT bụng cản quang ở bệnh nhân nam 25 tuổi. Thấy hẹp khẩu kính tĩnh mạch chủ dưới (mũi tên đen). Có dập phổi hai bên. Dịch ổ bụng lượng nhiều.
Dấu Halo
Dấu halo là một vùng chu vi giảm đậm độ (<20HU) có thể là biểu hiện của dịch ngoại bào quanh tĩnh mạch chủ dưới bị xẹp (Hình 5)
Hình 5: Hình CT bụng cản quang ở bệnh nhân nam 36 tuổi. Dấu halo (mũi tên) và máu tụ trong gan rõ rệt.
Dấu hiệu này thường thấy ở mức tương ứng với phần trên của gan , dưới chỗ hợp lưu của tĩnh mạch gan. Dấu hiệu halo không đặc hiệu trong phức hợp shock giảm thể tích máu. Các tác giả này cũng đã quan sát thấy dấu hiệu tương tự ở bệnh nhân có bệnh lý gan và xung huyết gan. Các báo cáo khác cũng đã thấy dấu hiệu tương tự quanh tĩnh mạch cửa ở bệnh nhân xơ gan đường mật, viêm gan và u có tắc dẫn lưu bạch huyết ở rốn gan.
Khẩu kính động mạch chủ nhỏ
Giảm khẩu kính động mạch chủ là dấu hiệu thường gặp ở bệnh nhân giảm thể tích máu (Hình 1). Khẩu kính động mạch chủ nhỏ hơn 13mm ở mức trên và dưới 2 cm chỗ xuất phát động mạch thận là bất thường. Điều này được xem là do co thắt tiểu động mạch thông qua hệ thần kinh giao cảm và do giảm huyết áp.
Khẩu kính động mạch chủ nhỏ là dấu hiệu không đặc hiệu của giảm huyết áp, nó cũng thấy ở người bình thường. Giảm khẩu kính và tăng quang lòng mạch các mạch máu tạng trong ổ bụng khác cũng thường gặp ở bệnh nhân có phức hợp shock giảm thể tích máu (Hình 6).
Hình 6: Hình CT của cùng bệnh nhân ở hình 4. Ghi nhận tăng quang mạnh các động mạch trong gan. Giảm tưới máu cả gan và lách.
CÁC BIỂU HIỆN TẠNG CỦA GIẢM THỂ TÍCH MÁU
Tăng quang gan bất thuờng
Tăng quang gan thuờng không đồng nhất trong phức hợp shock giảm thể tích (Hình 7). Giảm tăng quang gan (nhỏ hơn lách 25HU) đuợc xem là đáng kể. Điều này có thể kèm theo tăng quang mạch máu trong gan với phù quanh mạch xung quanh (Hình 6). Dấu hiệu CT này ít gặp hơn các bất thuờng nhu mô đặc khác. Đọc phim có thể bị duơng tính giả ở bệnh nhân có thêm bệnh lý gan lan toả như gan nhiễm mỡ.
Hình 7: CT scan ở bệnh nhân nam 46 tuổi thấy một số đặc điểm của shock giảm thể tích máu. Khẩu kính mạch máu nhỏ, tăng đậm độ; tuyến thượng thận phải tăng đậm độ (mũi tên đen). Phù quanh tuỵ và giảm tuới máu lách. Thấy rõ lớp máu tụ ở khoang dưới hoành (mũi tên trắng).
Giảm tuới máu lách
Giá trị đậm độ thấp của lách trong shock giảm thể tích liên quan với giảm tưới máu nặng hơn là tổn thuơng động mạch lách hoặc nhu mô lách (hình 6-8). Dòng động mạch lách không có cơ chế tự điều hoà và thuờng nhạy hơn với kích thích giao cảm và vì vậy gây co mạch. Các nguyên nhân khác của giảm đâậ độ lách gồm tổn thuơng mạch máu, rách lách, vỡ, nhồi máu, thể tích và thời gian tiêm thuốc cản quang tĩnh mạch không đúng.
Hình 8: CT bụng có cản quang ở bệnh nhân nam 43 tuổi thấy tăng quang thành túi mật, dịch ổ bụng và giảm tuới máu lách.
Phù quanh tụy
Phù quanh tụy đậm độ thấp (< 20HU) thấy ở bệnh nhân giảm thể tích máu (hình 9-12). Trong một số truờng hợp cũng có tụ dịch mạc treo và dịch sau phúc mạc khác. Tuy nhiên, dịch quanh tuỵ không đặc hiệu cho giảm thể tích máu và cũng thấy ở bệnh nhân viêm tụy cấp.
Hình 9: CT bụng cản quang ở bệnh nhân nam 46 tuổi. Ghi nhận phù quanh tụy giảm đậm độ (<20HU) (mũi tên trắng). Cũng ghi nhận tăng quang mạnh thành túi mật (mũi tên đen), tăng quang mạnh tuyến thượng thận trái, khẩu kính động mạch chủ bụng và tĩnh mạch chủ duới nhỏ cũng như dày và tăng quang thành ruột non lan toả.
Hình 10: CT bụng cản quang ở bệnh nhân nam 25 tuổi. Thấy phù quanh tụy đậm độ thấp (mũi tên). Tổn thương tụy không ghi nhận khi mổ tử thi. Ghi nhận tăng quang mạnh tuyến thượng thận trái và xẹp IVC.
Hình 12: CT bụng cản quang ở bệnh nhân nam 40 tuổi thấy phù quanh tụy đậm độ thấp (mũi tên), và xẹp IVC.
Hình 12: CT bụng cản quang ở bệnh nhân nam 46 tuổi sau tai nạn giao thông. Ghi nhận phù quanh tụy giảm đậm độ (<20HU) (mũi tên trắng).
Tăng quang tuỵ bất thường
Giá trị đậm độ sau tiêm cao hơn bình thường (Cao hơn gan và lách 20HU) (Hình 2) và thấp hơn đo đậm độ tăng quang bình thường (nhỏ hơn tăng quang nhu mô gan 20HU). Mặc dầu có một số báo cáo chứng minh cả tăng và giảm tăng quang nhu mô tụy, chúng tôi thấy dấu hiệu này không đặc hiệu.
Tăng quang mạnh nhu mô thận
Thông thường, thận độ bất thường kéo dài thấy ở bệnh nhân giảm thể tích máu (hình 1 và 2). Tưới máu thận bất thường thường có biểu hiện là tăng tăng quang nhu mô thận, tuy nhiên cũng thâấ tăng quang khu trú. Giảm áp lực tâm thu gây co mạch mạnh tiểu động mạch đến của cầu thận làm tăng gánh lọc cầu thận, dẫn đến ứ đọng ống thận và gây tái hấp thu muối và nước. Mặc dù được điều trị giảm huyết áp đúng cách, sự cấp máu và tưới máu thận có thể không phục hồi được. Tăng quang nhu mô thận phụ thuộc vào một số yếu tố gồm cung lượng tim, thời gian cắt lớp liên quan với việc tiêm thuốc cản quang, và vì vậy là dấu hiệu không đặc hiệu.
Tăng quang mạnh tuyến thượng thận
Tăng quang tuyến thượng thận được xác định khi giá trị đậm độ tương đương hoặc cao hơn tĩnh mạch chủ dưới (hình 7, 9, 10). Trong phần lớn các trưuòng hợp là đối xứng. Nguyên nhân của tăng quang mạnh tuyến thượng thận chưa biết, tuy nhiên, có lẽ là do đáp ứng giao cảm của shock giảm thể tích, song song với việc duy trì tưới máu tuyến thượng thận như là một cơ quan sống còn. Mặc dù hữu ích, tăng quang tuyến thượng thận không là duy nhất với phức hợp shock giảm thể tích. Các tác giả quan sát các dấu hiện này trong các trường hợp khác, chẳng hạn, sau bỏng nặng hoặc phẫu thuật.
Tăng quang niêm mạc túi mật
Tăng quang mạnh niêm mạc túi mật không có dày thành là dấu hiệu quan sát thấy trong phức hợp shock giảm thể tích (hình 8, 9) tuy nhiên, không đặc hiệu và là giá trị còn nghi ngờ.
Biểu hiện CT của shock ruột
Dấu hiệu thường gặp nhất của shock ruột gồm tăng quang mạnh niêm mạc ruột non (HU > cơ psoas) và dày thành ruột> 3mm (hình 3, 13 và 14). ít gặp hơn, có dãn ruột non (> 2.5cm) hoặc dịch đầy các quai ruột non (hình 15). Ruột non thường tổn thương lan toả trong khi ruột già ít bị tổn thương (hình 16). Thay thế thể tích nội mạch bị xẹp bằng thuốc cản quang cùng với tăng tính thấm thành ruột, dẫn đến thành ruột dày và tăng quang mạnh thành ruột do tưới máu bị chậm lại và rò rỉ thuốc cản quang vào mô kẽ. Sự tích tụ dịch khoang thứ ba và giảm tái hấp thu dịch gây dãn lòng ruột. Các thay đổi này có thể phục hồi được trong giai đoạn sớm của shock giảm thể tích máu.
Hình 13: CT bụng cản quang ở bệnh nhân 29 tuổi sau tai nạn giao thông. Có dày và tăng quang thành ruột non lan toa (mũi tên).
Hình 14: CT bụng cản quang ở bệnh nhân nam 43 tuổi. Thấy dạng điển hình của shock ruột: Các quai ruột non dãn lấp đầy dịch với dày thành và tăng quang thành. Ghi nhận tương phản ruột không rõ ở các quai ruột này (mũi tên).
Hình 15: CT bụng cản quang ở bệnh nhân nữ 43 tuổi. Thấy shock ruột. Mũi tên nhấn mạnh niêm mạc ruột non tăng quang mạnh.
Hình 16: CT bụng cản quang ở bệnh nhân nam 45 tuổi sau tai nạn giao thông với biểu hiện điển hình của shock ruột: Các quai ruột non dãn lấp đầy dịch với dày thành và tăng quang thành. Ghi nhận đại tràng cũng bị tổn thương (mũi tên).
Sự hiện diện của dày và tăng quang thành ruột khu trú kèm dịch tự do là các dấu chỉ điểm gợi ý cao thủng ruột và viêm phúc mạc. Các dấu hiện này không được quy cho phức hợp shock giảm thể tích cho đến khi loại trừ được các nguyên nhân khác.
KẾT LUẬN
Trong bệnh cảnh chấn thương bụng, CT bụng và chậu sớm có thể thấy các bất thường lan toả phản ảnh sự hiện diện của shock giảm thể tích. Trong các trường hợp này, các dấu hiệu CT liên quan với giảm thể tích máu và không phải các tổn thương cấu trúc các tạng liên quan. Vì vậy, đòi hỏi điều trị hỗ trợ hơn là phẫu thuật.
Nguồn: Chỗ ni nè!
A pictorial review of hypovolaemic shock in adults
A M TARRANT, MSc, FFR, RCSI1, M F RYAN, FFR, RCSI1, P A HAMILTON, MD2 and O BENJAMINOV, MD2
1 Department of Radiology, Cork University Hospital, Wilton, Cork, Ireland, 2 Medical Imaging, Sunnybrook and Women's College Health Sciences Centre, University of Toronto, Ontario, Canada